Luật sư tư vấn pháp luật – Xin chào bạn, theo quy định tại Điều 22 Khoản 1 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017) thì tự vệ là hành vi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hoặc lợi ích của các quốc gia, thể chế hoặc tổ chức cần thiết để chống lại các cá nhân vi phạm các lợi ích trên. Tự vệ không phải là tội phạm.
Vì vậy, đặc biệt là những tên trộm, những kẻ vi phạm pháp luật nói chung đang làm tổn hại đến tài sản của bạn, cuộc sống của bạn, cuộc sống của người khác hoặc ngôi nhà. Quốc gia, tổ chức, tổ chức khác, bạn sẽ có được cuộc chiến cần thiết để người này ngăn chặn tội phạm (không cường điệu).
Ví dụ 1: Tên xã hội đen đã sử dụng vũ khí và bạn tự sát dã man để cướp tài sản. Bạn không còn cách nào khác để trốn thoát và bạn không cần phải chiến đấu chống lại tên cướp giết người. Trong trường hợp này có thể coi là phòng vệ chính đáng chứ không phải là tội phạm.
Ví dụ 2: Thấy kẻ trộm đang giật cặp sách của người khác, bạn có thể vỗ tay để ngăn chặn. Kẻ xâm nhập. xúc phạm. Tuy nhiên, nếu bạn giết nó bằng dao, nó là quá mức cần thiết và không còn được coi là hành động tự vệ nữa.
Theo Điều 22, khoản 2, các giới hạn của một biện pháp phòng vệ đã lỗi thời. Điều đáng nói, hành vi này rõ ràng là phiến diện và không phù hợp với tính chất của hành vi xâm hại và mức độ nguy hiểm cho xã hội. Người nào vượt quá phạm vi phòng vệ hợp lý thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
Nếu vượt quá phạm vi phòng vệ hợp lý, có thể dẫn đến tử vong và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Một hoặc nhiều tội danh sau đây: – Người vượt quá giới hạn tự vệ quy định tại Điều 126 (có thể bị cải tạo không tước tự do đến 2 năm hoặc phạt tù đến 3 tháng) và bị phạt tù dưới 2 năm Hình phạt: Theo quy định tại Điều 2, Điều 136 Khoản 3, một người trở lên sẽ bị phạt tù từ 2 năm đến 5 năm (tù từ 1 đến 3 năm). Thành Hữu Đoàn Luật sư TP.