1. Cây kim anh thảo-cây kim tiền thảo còn gọi là cây vảy rồng, cây mắt trâu, cây tiên lông, cây kim tiền thảo (Desmodium styracifolium) (Osb.) Merr. , Ở cây họ đậu. — Cây nhỏ 40-80cm mọc bò. Nhổ gốc, bén rễ, rồi thẳng. Cành non hình trụ, lõm xuống và có lông nhung. Các lá mọc so le, bao gồm một hoặc ba lá chét, dài 2,5 đến 4,5 cm và rộng 2 đến 4 cm. Lá chính giữa có hình mắt chim, lá phụ hình bầu dục mắt chim, mặt trên của lá có màu xanh và nhẵn, mặt dưới màu bạc có lông mềm. Cụm hoa dạng chùm hay chùm ở nách lá hoặc đốm vàng ở ngọn lá, có lông mềm, thường có lá ở gốc hoa. Hoa màu hồng, mỗi chùm 2-3 bông. Quả chùm, hơi cong, có 3 hạch. Nó nở hoa từ tháng sáu đến tháng chín, và nở hoa từ tháng chín đến tháng mười. — Hoa đồng tiền mọc ở các vùng miền trung hoặc miền núi. Thường thấy ở những nơi sáng, trên đất cát. Toàn cây được thu hái vào mùa hè và mùa thu, có thể dùng tươi hoặc phơi khô dùng dần.
Theo Đông y, cỏ nhọ nồi vị hơi ngọt, tính hơi mát, tác dụng thanh nhiệt, tán thấp, lợi tiểu, tiêu thũng. — Thường được dùng chữa sỏi niệu đạo, sỏi bàng quang, sỏi túi mật, viêm đường tiết niệu, viêm thận phù thũng, viêm gan vàng da. Ngày dùng 15-60g, dạng thuốc sắc uống. Không thích hợp cho phụ nữ mang thai.
Một số liệu pháp dùng thảo dược
– đại tiện tiểu tiện: dùng 60 g kim tiền thảo, đun với 500 ml nước, sắc còn 150 ml, chia 2-3 chén uống trong ngày. -Hoặc dùng các vị thuốc: 30 gam hoa anh thảo, 20 gam râu mèo, 12 gam rễ cỏ tranh, 10 gam sơn tra. Trước bữa ăn, dùng 750 ml nước và 200 ml nước đặc nấu cùng chia làm 2 lần uống. Uống trong 30 ngày. — Viêm đường tiết niệu: Sao vàng 30 gam, Mã đề 16 gam, kim ngân hoa 16 gam, bồ công anh 16 gam, phụ tử chế 16 gam. Hãm với 750ml nước, sắc còn 300ml, ngày uống 2 lần khi bụng đói.
– Phù do viêm thận cấp, viêm gan, vàng da, viêm túi mật: Thảo quyết minh 60g, mộc thông 20g, cỏ nhọ nồi 20g (hoặc thịt bò mỗi thứ 20g), phô mai 10g, rễ tranh 10g, mã đề 10g. Nó có đồ uống tuyệt vời nói trên.
2. Plantain
Plantain còn được gọi là Caoqian xa, Suma (Tày), Shiyan (Thái), Mía rận (Dao), và tên khoa học của nó là Plantago majorL. , Thuộc họ Plantaginaceae.
Cây thảo sống lâu năm, cao 15-20cm, thân ngắn. Lá mọc thành chùm ở gốc, thân rộng và ngắn hơn lá. lưỡiLá hình thìa hay bầu dục, có 2-3 gân hình cung. Hoa nhỏ, màu trắng, xếp thành bông dài, mọc thẳng. Quả hình cầu nhỏ và chứa 6-18 hạt. Hạt nhỏ, tròn hoặc bầu dục, to 1-1,5 mm, màu đen bóng. Mùa quả tháng 5-8. -Psyllium mọc ngoài tự nhiên và có thể được sử dụng làm thuốc ở khắp mọi nơi. Người ta tin rằng loài cây này thường mọc trên dấu chân của ngựa, vì vậy nó từng được gọi là cây mã đề (mã đề: ngựa, môn: móng tay). Từ tháng 7-8 khi quả chín thu hái cả cây, cắt bỏ rễ, rửa sạch cát, cắt khúc 3-5 cm, phơi khô. Muốn lấy được hạt, bạn hãy đập nhỏ và giữ lại hạt, rây rồi phơi khô, để nơi khô ráo để sử dụng.
Plantain có các tên sau: – – Plantain là một loại thực vật có rễ, phơi hay sấy khô .—— Plantain, lá của cây thuộc họ thực vật (Plantaceae) ở dạng tươi Phơi hoặc khô. – Hạt giống cây) là hạt cây khô hoặc khô. – – Toàn bộ hạt cây có chứa glucoside, nghệ tây hoặc rinantin. Trong lá có chứa chất nhầy, chất đắng, caroten, saponin, vitamin A, C, K và axit xitric. Hạt rất giàu chất nhầy, axit enoic thực vật, adenin và choline.
Theo Đông y, Mã đề có tính chất là thịt nạc, vị ngọt, tính bình, không độc, tác dụng lợi tiểu, tiêu viêm, thấm thấp bàng quang, thanh phế nhiệt, thanh nhiệt, nhuận phế.
Toàn cây hay vỏ cây được dùng để chữa phù thũng, bí tiểu, tiểu ra máu, sỏi thận, ho lâu ngày, viêm phế quản đỏ, đau mắt, kiết lỵ, tiêu chảy, cao huyết áp, đái dắt ở phụ nữ. Ngày dùng 8-16g dưới dạng thuốc sắc hoặc nấu uống, bôi phần đầu để chữa bỏng. Lá vối tươi rửa sạch với nước muối pha loãng giã nát đắp vào chỗ mụn nhọt sẽ giúp mụn nhọt mau vỡ và mau lành. Bất kể số lượng, nó có thể được sử dụng tại chỗ. Chủ đề .
Một số phương pháp sử dụng mã đề
– trị bệnh phù thũng, dịch tả: Mã đề, hạt liễu, mỗi thứ khoảng 300-500g, trộn đều, ủ chín, phun. Ngày uống 3 lần trước bữa ăn, mỗi lần khoảng 10-12g.
-Đàoờ Người già đi tiểu tiện do nhiệt: Cây mã đề 30-50g, sắc dùng 600ml nước, sắc còn 300ml, bỏ bã lấy nước. Dùng nước này để nấu 100 gam hạt kê thành cháo kê. Ăn khi bạn đang đói.
– Người già đi tiểu tiện: Rễ cả cây, rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước khoảng 1 chén. Pha ít mật ong uống ngay sẽ thông tiểu (thần hiệu thuốc nam)
– Chữa tiểu ra máu: Cỏ nhọ nồi tươi 100g, cỏ nhọ nồi tươi 100g, hai thứ rửa sạch, giã nát vắt lấy nước cốt. (Khoảng 1 ly), uống khi bụng đói.
Theo sách “Nam dược thần hiệu” xuất bản thứ ba, Psyllium có vị ngọt, tính hàn, có tác dụng lợi tiểu, tiêu chảy, chữa tiêu chảy, trừ tê nhẹ, tăng cân, giải cảm. sinh đẻ. Khi dùng, vớt bỏ lớp màng bên ngoài và hơ lửa nhỏ cho đến khi hạt nở ra rồi chuyển sang màu đen nâu. Dùng cho các trường hợp nước tiểu vàng đỏ, tiểu buốt, tiểu ra máu, sỏi trong viêm đường tiết niệu.
3. Cây trạch tả
Cây này còn có tên là cây bìm bịp, Alisma grandiflora, họ Thủy tiên, họ A. – Cây thảo, cao 40-50cm, hình cầu hoặc xoay Thân rễ, màu trắng. Lá mềm, phiến lá hình trái xoan, hình mác tương tự như cây mã đề, cuống lá dài hơn phiến lá, các bẹ lớn mọc thành hình hoa thị. Hoa macadamia lớn, cao 30-120 cm, lưỡng tính, có 3 lá đài màu xanh lục, 3 cánh hoa màu trắng hoặc hồng, 6 nhị và 20-30 lá noãn đính thành vòng. Cụm quả. Mùa hoa quả tháng 10-11.
Trạch tả mọc ở những nơi ẩm thấp (ao, ruộng …), thân rễ cũng được trồng làm thuốc. Người ta thu hái thân rễ mua về, rửa sạch, cạo hết rễ nhỏ, phơi hoặc sấy khô rồi bảo quản nơi khô ráo để dùng dần. Khi dùng có thể có màu vàng hoặc ngâm trong rượu hoặc màu vàng mặn. Các chất phân tích trong thân rễ của trạch tả bao gồm: tinh dầu chứa Asiol A, B, C và Epiasiol A, nhựa, protein và tinh bột 23%.
Theo Đông y, trạch tả có vị mặn ngọt tính hàn, lợi thủy lợi thấp, chỉ tả lỵ, ti và.Đã khát và thỏa mãn tiêu hóa. Ngoài ra, nó còn có tác dụng kích thích, nhuận tràng, cho con bú, long đờm và chống nôn.
Nó thường được dùng để điều trị một số bệnh về đường tiết niệu như: tiểu không tự chủ, bí tiểu, ứ nước tiểu, tiểu buốt, tiểu ra máu, não úng thủy, viêm thận, chướng bụng. Ngoài ra còn dùng chữa tiêu chảy, kiết lỵ, viêm gan, vàng da, mắt đỏ, bạch sản, di tinh… làm thuốc cho phụ nữ sau khi sinh đẻ chữa chóng mặt (ảo giác). – Mỗi ngày dùng 8-16 gam dạng thuốc sắc hoặc tán bột (dùng với các vị thuốc khác).
Để tả lửa nhỏ, người ta đốt bằng than củi, gọi là than củi. Lá trạch tả (Chùm ngây) tính bình, vị mặn, không độc. Nó thường được dùng để chữa bệnh ngoài da (bệnh phong), giúp lợi sữa, dễ sinh nở. Hạt trạch tả có tác dụng lợi tiểu tương tự như Psyllium (xa tiền tử). Tuy nhiên, bạn lưu ý không nên uống quá nhiều trạch tả, vì nước sẽ sinh ra sốt cao, có thể gây nhức mắt.
Một số phương pháp điều trị là dùng tả
– trị nước Thạch: trạch tả (sao vàng), bạch truật (sao vàng), hai thứ lượng bằng nhau 50-80g, tán nhỏ. Ngày uống 8-12g, ngày 2 lần. Uống với phục linh và uống trước bữa ăn.
Hoặc dùng bài Trạch tả Thần thang
Trạch tả 6g, Phục linh 6g, Bạch biển đậu 4g, Cam thảo 2g, Nhục quế 2g. Nấu với 600ml nước và 200ml màu thực phẩm, uống 2-3 lần trước bữa ăn.
– Nếu thủy thũng kèm theo tiểu buốt, tiểu rắt thì dùng các bài thuốc sau: — Trạch tả 12g, Ý dĩ (Sao) 12g, Tỳ giải 10g. Các gói có thể được uống như mô tả ở trên hoặc ở dạng bột trong ngày.
– Dịch tả là một loại thuốc đóng vai trò quan trọng trong việc chữa bệnh của “Lục địa xanh”. Ngoài tác dụng bổ thận hỏa, tả hỏa còn giúp làm giảm sự ứ trệ của các vị thuốc (quân vị) cục bộ. Bài thuốc hoàng bá gồm: thục địa 20-32g, sơn thù 10-16g, đương quy 8-12g, hoài sơn 10-16g, thục địa 8-16g, trần bì 8-12g. Dùng 750ml nước sắc thành cao còn 300ml, uống ngày 2-3 lần khi bụng đói. Nó có thể được thành bột và tạo thành với mật ong. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 12-16 gam.
Đây là phương pháp điều trị chính cho sức khỏe của thận và được sử dụng khi cần thiết.7853; dương khí hư, viêm thận mãn tính, suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh, tiểu đường, cao huyết áp, tăng lipid máu … do âm hư. Nhục quế, phụ tử gọi là Bát vị hay Thận khí hoàn dùng chữa thận khí hư. Dùng cho các bệnh mãn tính, như: viêm thận mãn tính, liệt dương, tiểu đêm, gầy yếu, suy nhược thần kinh… do dương hư.
4. Pandanus odoratissimus Lf (P.tectorius Park, ex Z.), còn được gọi là dứa gai và thân gỗ, Pandanus odoratissimus Lf (P.tectorius Park, ex Z.). Ở ngọn cao 2-4m, có nhiều rễ phụ rủ xuống. Lá ở cuối cành, dài khoảng 1 đến 2 m, ở gân chính, hai bên mép có gai nhọn. Con bướm đực đang treo mình trên ngọn cây với những bông hoa trắng thơm rải rác trên đó. Bướm sống đơn độc và gồm nhiều lá noãn. Quả kết thành khối hình trứng, dài 16 – 22 cm, có cuống, màu vàng cam, gồm các hạt có góc, dẹt và đỉnh, có nhiều hạt rất cứng, chia thành nhiều chiếc. -Cây mọc ở bãi ẩm, bụi rậm ven biển, bờ nước mặn, rừng ngập mặn. Ở Việt Nam, từ Hòa Bình đến Kiên Giang, người ta cũng bắt gặp dứa dại ở các bờ sông trên khắp Việt Nam.
Bộ phận làm thuốc là rễ, quả, hạt và lá. Thân rễ thu hái quanh năm tốt hơn thân rễ chặt khỏi mặt đất, phơi khô hoặc dùng dần. Quả thu hái vào mùa đông thường là quả trưởng thành xuôi dòng, người dân thu hái, đưa về nơi tươi hoặc phơi khô.
Theo Đông y, củ dứa có vị ngọt nhạt, tính mát, tác dụng làm ra mồ hôi, giải nhiệt, giải độc, tiêu viêm, lợi tiểu. Nó thường được sử dụng để điều trị cảm lạnh, sốt, não úng thủy, nhiễm trùng đường tiết niệu, viêm gan, cổ trướng và xơ gan. Liều lượng là 15-30g súp uống. Rễ được dùng để chữa bệnh mất ngủ.
Quả dứa có tác dụng chữa kiết lỵ, thanh nhiệt, giải độc và trị ho. Liều dùng dưới dạng thuốc sắc từ 30-100g. Hạt dùng chữa viêm tinh hoàn, trĩ, liều lượng 30-60g sắc nước uống.
# 79 lá13; Dâm dương hoắc có vị đắng, cay, thơm, có tác dụng kích thích, diệt khuẩn. Người ta dùng lá chữa cảm mạo, nhức đầu, thấp khớp, lở loét do nhiệt độ. Liều dùng 20 – 30g, sắc nước uống hoặc phối hợp với các vị thuốc khác, tác dụng như nhau.
Một số liệu pháp dùng quả dứa
– Đi tiểu khó, tiểu gắt, tiểu buốt: Dùng 6-12g rễ, 15-20g mầm, 12-20g rễ dứa (thơm, dứa). Cho 200ml nước còn lại vào túi 500ml, sắc uống 2 lần trong ngày.
Nếu bị viêm đường tiết niệu thì dùng các bài thuốc sau: rễ dứa dại 16g, ý dĩ 16g, trạch tả 12g, kim ngân hoa 16g, cam thảo 12g. Sắc còn 750ml nước, sắc uống 300ml chia 2 lần trước bữa ăn.
– Phù thũng: rễ dứa dại 16-20g, đậu đỏ (xích thược) 16g, liễu diệp 16g, cam thảo 12g, rau muống 8g. Đóng túi 750ml 300ml, chia làm 2 lần, uống trước bữa ăn.
Theo kinh nghiệm dân gian Trung Quốc, người ta dùng 40-60g rễ dứa dại, thịt lợn nấu chín ăn có tác dụng chữa viêm thận phù thũng. – Sỏi thận: Hạt dứa dại 10 gam, chuối hột 10 gam, hạt điều (đồng tiền) 15 gam, củ mài 10 gam. Mỗi túi 750ml 300ml, ngày uống 2 lần.
Người dân đồng bằng sông Cửu Long cũng có thể dùng củ dứa để chữa bệnh tiểu vàng, nóng, khó: Rễ dứa 16 gam, rau dừa nước 16 gam (Long đởm), râu ngô 12 gam, vỏ cam 6 gam. Hạt mã đề, 8 gam mã đề, 8 gam rau má, 6 gam lá bầu, 6 gam cam thảo. Túi chứa 750 ml và 300 ml, chia làm 2 lần uống trong ngày.
5. Dứa (thơm, thơm) – Dứa là loại trái cây nhiệt đới chứa nhiều chất dinh dưỡng. Theo Đông y, dứa có vị chua ngọt, tính bình, có tác dụng giải nhiệt, sinh tân dịch, trợ giúp tiêu hóa, nhuận tràng. Nó thường được sử dụng trong các trường hợp sau: thiếu máu, thiếu khoáng chất, khó tiêu, xơ cứng động mạch, viêm khớp, bệnh gút, khó chịu đường tiêu hóa.
Dùng quả chín, gọt bỏ vỏ, bỏ mắt, để nguội hoặc ép lấy nước uống. Bạn nên ăn một chút muối ớt để không bị bỏng lưỡi.
Để điều trị sỏi bàng quang, bạn hãy sử dụng rễ dứa như sau: Rễ dứa 30 – 40 gam, thái nhỏ, thêm 650 ml nước, sắc còn 300 ml nước 2 bữa sau uống.
Người bị sỏi nên tránh hoặc hạn chế thực phẩm có hàm lượng oxalat cao như khoai lang, đậu phộng, dưa, tỏi tây, mù tạt, anh đào, mận, đỏ, cam, nho … – uống c &# 7847; Tránh: trà, ca cao, rượu, canh cà chua …- Nên uống nhiều nước để tăng lượng nước tiểu, nhất là khi trời nóng hoặc khi phải vận động nhiều. — BS Đinh Công Bảy
Tổng thư ký Hội Dược liệu TP.HCM