Việt Nam không có quy định về giao kết “hợp đồng hôn nhân”

Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình ở một số nước phương Tây, pháp luật cho phép cả nam và nữ giao kết hợp đồng hôn nhân (HĐ) trước khi kết hôn. Cả hai bên đạt được sự đồng thuận về các vấn đề pháp lý, chẳng hạn như phân định tài sản chung, tài sản riêng, tài sản trước hôn nhân và tài sản sau hôn nhân, hoặc một hoặc cả hai bên muốn chấm dứt hợp đồng hôn nhân, chẳng hạn như quan hệ (ly hôn, ly thân), giám hộ và phân chia tài sản. Nếu vợ chồng ly hôn.

Tuy nhiên, vấn đề này ở Việt Nam và một số nước phương đông vẫn chưa được công nhận vì nó không phù hợp về mặt văn hóa và không thể phổ biến. Mục đích của hệ thống hôn nhân và gia đình là thúc đẩy lòng trung thành, nuôi dạy con cái và xây dựng gia đình lâu dài, bền vững và hạnh phúc.

Hiện nay, “Luật Hôn nhân và Gia đình của nam giới Việt Nam” (luật về gia đình và gia đình) và các văn bản liên quan chưa có quy định nào cho phép nam nữ giao kết và ký kết hợp đồng hôn nhân. Trong trường hợp có tranh chấp, các hợp đồng này không được pháp luật công nhận, cũng như không phải tuân theo pháp luật HN & GĐ.

Tuy nhiên, quyền và lợi ích hợp pháp của chồng, phụ nữ và tài sản riêng trước và trong khi kết hôn không được pháp luật bảo vệ.

Chính xác hơn, theo Điều 32 Luật Gia đình và Gia đình thì “Vợ, chồng có quyền sở hữu tài sản riêng, tài sản riêng của vợ chồng bao gồm tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi người trước khi kết hôn; Tài sản được thừa kế, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng chia tài sản chung cho vợ, chồng là tài sản riêng và tài sản riêng ”. Cũng theo luật này, vợ, chồng có quyền nhập khẩu hoặc chia tài sản chung.

Về quan hệ giữa cha mẹ và con cái, Điều 34 Luật Gia đình và Gia đình quy định: “Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền yêu thương, chăm sóc, nuôi dạy, chăm sóc và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con cái …”. Pháp luật không phân biệt trong và sau hôn nhân, vì vậy, dù trong hay sau hôn nhân, cha mẹ đều có quyền yêu thương, được chăm sóc, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và quyền lợi hợp pháp của con cái. .

Theo Điều 92 Luật HN & GĐ quy định cụ thể hơn về quyền nuôi con của vợ, chồng sau khi ly hôn, trong trường hợp ly hôn, cả hai vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi ly hôn. Nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. đứa trẻ. Nếu tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng thì bên kia không mất quyền thăm nom, nuôi con. Nói chính xác hơn: “Sau khi ly hôn, vợ chồng luôn có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, nuôi dạy người chưa thành niên hoặc người thành niên tàn tật, không có năng lực hành vi dân sự, không có quyền lao động, tôi không có quyền. Nói cách khác, trẻ em có quyền. Dưới sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của cha mẹ … Không ai có quyền tước bỏ quyền của trẻ em (trừ trường hợp cha mẹ có hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền và quyền hợp pháp của trẻ em, phải chịu sự giám hộ của Tòa án và giám hộ của trẻ em. Quyền thăm nom Điều 94 Luật HN & GĐ cũng quy định rõ: “Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được ngăn cản người đó thực hiện quyền này. Người không có trách nhiệm chăm sóc trẻ em ở nhà có thời hạn, chăm sóc trẻ em, cho trẻ em đi mua quần áo, sách vở cho trẻ em …

Nếu người không trực tiếp nuôi dạy trẻ em thăm nom, can thiệp, cản trở việc chăm sóc trẻ em. Chăm sóc, nuôi dưỡng, chăm sóc và quyền trực tiếp nuôi con, có quyền làm đơn yêu cầu tòa án hạn chế tiếp xúc giữa con với con.

Trường hợp cử người trực tiếp nuôi dạy trẻ mà hạn chế, ngăn cản người khác đến thăm nuôi trẻ thì tùy trường hợp, có thể căn cứ vào Chính phủ số 87/2001 ngày 21/11/2001 của Chính phủ. Nghị định / NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình và buộc phải chấm dứt hành vi đó. Của cơ quan có thẩm quyền. – Về yêu cầu tạm trú tại Việt Nam của người nước ngoài, pháp luật quy định như sau: – Căn cứ Điều 15 Khoản 3 Quy định số 24/1999 / PL-UBTVQH10 về thời điểm nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam: “Tạm trú Người nước ngoài cư trú từ 01 năm trở lên sẽ được cơ quan quản lý xuất nhập cảnh có thẩm quyền Bộ Công an cấp giấy tạm trú có thời hạn từ 01 năm đến 03 năm, người có thẻ tạm trú được miễn trong thời hạn của thẻ Thị thực xuất nhập cảnh. »Quy địnhĐiều này cũng áp dụng đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang hộ chiếu nước ngoài.

Đặc biệt trong các trường hợp sau, giấy phép tạm trú có thể được cấp theo yêu cầu:

– Người nước ngoài là thành viên của công ty TNHH hai thành viên trở lên;

– Người nước ngoài có một người bị hạn chế Công ty có trách nhiệm;

– Người nước ngoài là thành viên Hội đồng quản trị công ty cổ phần;

– Luật sư nước ngoài được Bộ Tư pháp cho phép hành nghề tại Việt Nam theo quy định của pháp luật;

– Người nước ngoài cấp giấy phép lao động các loại Làm việc tại các văn phòng đại diện của các công ty nước ngoài .—— Chuyên gia, sinh viên, thực tập sinh, làm việc theo kế hoạch, dự án quốc gia, hiệp định học tập giữa các Bộ, ngành được Chính phủ phê duyệt .—— Có thẻ Người đi cùng người (cha, mẹ, vợ, chồng, con đẻ (dưới 18 tuổi), bạn có con (dưới 18 tuổi)) ở Việt Nam nên theo quy định trên thì bạn liên hệ với Phòng xuất nhập cảnh Công an tỉnh. Văn phòng để được hướng dẫn cụ thể.

Công ty Luật Hà Nội Trần Hữu Tước (Trần Hữu Tước) 41

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *